Thông thường, các loại BMC với cùng chipset hầu như
không khác biệt về tính năng cơ bản (khả năng hỗ trợ phần cứng, tốc độ)
mà chủ yếu là những phụ kiện đi kèm và các chỉnh sửa nhỏ của từng nhà
sản xuất để tạo nét riêng, ví dụ thiết kế điện nguồn, BIOS, các cổng mở
rộng, chip tích hợp phụ (LAN, Firewire, SATA...). Chính vì lý do này
chipset là thành phần quyết định tới nền tảng của không chỉ BMC mà còn
của cả hệ thống máy tính hiện đại, nó xác định loại CPU có thể được sử
dụng, loại bộ nhớ (đối với chipset Intel), công nghệ đồ họa đa card...
Chính vì thế, một cái nhìn tổng quát về thị trường chipset hiện nay sẽ
giúp bạn đánh giá chính xác tình hình công nghệ chung của PC, đồng thời
có thể đưa ra những quyết định nâng cấp, mua sắm hợp lý. Đây cũng là
đích nhắm tới của bài viết này.
Chipset cho bộ xử lý Intel
1. Intel P45/G45:
Hai dòng chipset 4x vừa được trưng bày ở Đài Bắc
trong Computex 2008. Tuy nhiên hiện nay mới chỉ có phiên bản P45 và đàn
em của nó là P43 được tung ra thị trường bán lẻ. Điểm khác biệt giữa
P45 và P43 chính là khả năng hỗ trợ DDR3 (P43 chỉ có thể hỗ trợ
DDR3-1066 trong khi P45 có thể lên tới DDR3-1333MHz). Ngoài ra, P43
cũng không hỗ trợ công nghệ đồ họa đa card, còn P45 có thể hỗ trợ 1 khe
X16 hoặc 2 khe X8 cho đồ họa Crossfire X của AMD. Hiện tại, trên thị
trường đã có nhiều BMC P45 của các hãng lớn như ASUS, MSI, Gigabyte với
giá từ thấp cho tới cực cao, tùy khả năng hỗ trợ ép xung và tính năng
phụ kèm theo.
Điểm khác biệt chính của G45 so với P45 cũng tương
tự như G35 so với P35 chính là hệ thống đồ họa tích hợp. G45 được trang
bị GMA X4500HD, đây là bộ xử lý đồ họa của Intel nhằm tăng tốc các tác
vụ dựng phim chất lượng cao (VC-1, MPEG-2, AVC...) với mức chi tiết tối
đa 720p hoặc 1080i (không hỗ trợ 1080p). Intel cũng cho biết G45 hỗ trợ
tốt DirectX 10. Tuy nhiên hiện nay chưa có BMC G45 nào ra mắt. Bên cạnh
G45, Intel cũng hé lộ về phiên bản G43 với cùng khả năng dựng hình 3D
nhưng không hỗ trợ giải mã phim ảnh. Cả hai phiên bản đều cung cấp cho
người dùng các giao tiếp xuất hình ảnh thông dụng mới nhất như DVI,
HDMI và cả DisplayPort mà không cần sự hỗ trợ của chip phụ.
Nhìn chung, dòng chipset 4x mới của Intel là những
bản nâng cấp đơn giản của dòng 3x hiện nay với những thay đổi tập trung
vào khối điều khiển bộ nhớ, giao tiếp PCI-Express, và đồ họa tích hợp
(dòng G).
2. Chipset NVIDIA
Chipset Intel cao cấp nhất của NVIDIA hiện nay là
nForce 790i SLI. Đây là thế hệ chipset hoàn toàn mới với 32 kênh
PCI-Express 2.0 có băng thông rộng hơn hẳn các dòng cũ; mốc đánh dấu
đầu tiên của NVIDIA về việc nhảy vào sân chơi DDR3 mới. Chipset này
được thiết kế và tối ưu hóa cho dòng CPU Penryn của Intel và hỗ trợ mặc
định FSB 1600MHz. Đây là câu trả lời trực tiếp của NVIDIA đối với dòng
X48 Express của Intel. Thông số kĩ thuật của chipset mới như trong bảng
1.
nForce 790i SLI được sản xuất trên dây chuyền công
nghệ 90nm, tuy có phần “cũ kĩ” hơn so với 55nm và 65nm của AMD hiện
hành nhưng rõ ràng việc tăng cường từ kết nối LinkBoost PCI-E 1.1 của
nForce 780i lên PCI-E 2.0 với 32 kênh độc lập là điều rất tuyệt, cho
phép các thiết bị sử dụng giao tiếp này hoạt động với mức băng thông
tối đa. Hơn thế nữa, thiết kế PCI-Express mới cho phép NVIDIA tiến hành
tối ưu hóa nhiều thông số cho SLI dựa trên những ưu điểm của chip cầu
nối nForce 200. Trong đó, ưu điểm tốt nhất là các “lối tắt” cho phép bộ
điều khiển PCI-Express chuyển tín hiệu trực tiếp giữa 2 card đồ họa mà
không cần đi qua bộ nhớ chính. Ngoài ra, bộ điều khiển PCI-E cũng có
thể nhận một lệnh đơn từ CPU và truyền tới cả 2 card, tránh việc CPU
phải ra từng lệnh cho từng card và như vậy đã giảm được một nửa khối
lượng công việc cần thực hiện đồng thời giải phóng thêm băng thông cho
bus mặt trước (FSB). Tất cả những cải tiến này chỉ có thể tận dụng được
khi người dùng sử dụng nhiều card đồ họa kết nối trực tiếp với chipset
cầu Bắc. Điều này sẽ không vấn đề gì đối với SLI 2 card truyền thống,
tuy nhiên NVIDIA cho phép người dùng sử dụng tới 3 card hoạt động song
song (Tri-way SLI), card bổ sung thêm này buộc phải kết nối với chipset
cầu Nam (có giao tiếp PCI-E chậm hơn và không có các công nghệ mới như
vừa đề cập). Tuy nhiên, do xu thế kết nối một card với 2 GPU/khe
PCI-Express như GeForce 9800 GX2 nhằm tạo nên nền tảng SLI 4 kênh
(Four-way SLI) mới đã ngày càng phát triển mạnh hơn nên chắc sẽ ít
người chọn lựa giải pháp 3 kênh.
Thêm vào đó, khả năng hỗ trợ FSB 1600MHz của nForce
790i được thiết kế chủ yếu nhằm vào các dòng CPU cao cấp của Intel điển
hình như Core 2 Extreme QX9770. Tuy đây không phải là cải tiến gì vượt
trội bởi ngay cả dòng chipset cũ cũng có thể ép xung lên 1600MHz dễ
dàng, nhưng rõ ràng việc hỗ trợ sẵn FSB 1600MHz là đặc tính nên có ở
một chipset cao cấp như nForce 790i SLI; NVIDIA phân nForce 790 SLI
thành 2 dòng: tiêu chuẩn và cao cấp (Ultra). Cả hai cùng dùng chung một
đế silicon chip cầu bắc, tuy nhiên dòng Ultra có khả năng hỗ trợ tốc độ
DDR3 lên tới 2000MHz so với 1333MHz của dòng tiêu chuẩn. Ngoài ra,
NVIDIA cho biết bản Ultra có tốc độ cao hơn, hứa hẹn khả năng ép xung
tốt hơn.
Tuy việc hỗ trợ DDR3 tới 2000MHz rất ấn tượng, nhưng
nó cũng có một vài điểm giới hạn: trước hết, tốc độ trên 1800MHz chỉ có
thể đạt được khi hệ thống có duy nhất 1 thanh RAM mỗi kênh và phải cắm
vào khe RAM số 2 và số 4. Những BMC sản xuất theo thiết kế tiêu chuẩn
của NVIDIA sẽ phải tuân theo nguyên tắc này. Thứ hai, bộ nhớ muốn chạy
ở mức 2000MHz phải dựa trên mức điện thế 1,9v (cao hơn nhiều so với
tiêu chuẩn 1,5v của DDR3). Tuy vậy, ngay cả khi chạy ở mức bình thường
nForce 790i cũng có nhiều đặc điểm quan trọng hỗ trợ cho bộ nhớ, ví dụ
công nghệ đệm dữ liệu DASP (Dynamic Adaptive Speculative Preprocessor)
được tối ưu hóa đặc biệt nhằm kết hợp hiệu quả với bộ đệm L2 lớn của
các CPU Penryn. NVIDIA cũng tuyên bố khối quản lý bộ nhớ của nForce
790i có độ trễ của kênh dữ liệu thấp nhất từ trước đến nay. Dĩ nhiên,
một số công nghệ truyền thống như tính năng hỗ trợ EPP cũng có mặt, tuy
nhiên ở đây là phiên bản mới 2.0 dành riêng cho DDR3 với những tính
năng tương tự đối với DDR2.
BẢNG 1: THÔNG SỐ KỸ THUẬT CỦA CHIPSET MỚI |
|
X48 Express |
X38 Express |
P35 Express |
nForce 790i SLI Ultra SPP |
nForce 780i SLI SPP |
Front-side bus |
1600/1333/1066MHz |
1333/1066MHz |
1333/1066MHz |
1600/1333/1066MHz |
1333/1066MHz |
Bộ nhớ hỗ trợ |
DDR2-800 DDR3-1600 |
DDR2-800 DDR3-1333 |
DDR2-800 DDR3-1333 |
DDR3-2000* |
DDR2-800 |
Số kênh PCI-E 1.1 |
0 |
0 |
16 |
2 |
0 |
Số kênh PCI Express 2.0 |
32 |
32 |
0 |
32 |
32 |
Hỗ trợ đa GPU |
CrossFire |
CrossFire |
CrossFire |
SLI |
SLI |
Kiểu kết nối chipset |
DMI |
DMI |
DMI |
Hyper Transport |
Hyper Transport |
Băng thông kết nối nội |
2GB/s |
2GB/s |
2GB/s |
8GB/s |
8GB/s |
Tương tự các dòng chipset từ trước tới nay của
NVIDIA, nForce 790i cũng dùng liên kết nội HyperTransport để kết nối
chip cầu bắc và cầu nam với mức băng thông lên tới 8GB/s (nhanh hơn gấp
4 so với các chipset Intel). Băng thông cao hơn này sẽ rất có lợi cho
nền tảng đồ họa 3 card đã đề cập ở trên.
Phần cầu Nam của nForce 790i có kiến trúc hầu như
không khác gì so với nForce 570 SLI MCP mặc dù NVIDIA đặt tên nó là
nForce 790i Ultra MCP. Phiên bản nForce 570 SLI MCP lần đầu tiên được
giới thiệu vào năm 2006, trong nền tảng cao cấp nForce 590 SLI cho
Socket AM2, sau đó nó được sử dụng qua các “thời đại” nForce 570, 590,
590i, 680i và 780i. Bảng 2 là thông số của nForce 790i MCP.
Mặc dù đã có tuổi thọ gần 2 năm kể từ khi ra mắt,
chipset cầu Nam này vẫn đủ sức đáp ứng ngang ngửa với các dòng chipset
mới đến từ phía Intel; với 28 kênh PCI-Express 1.1, hai khối điều khiển
Gigabit Ethernet (kèm tính năng Packet Prioritization và Teaming),
nForce 570 SLI thậm chí còn lấn lướt về tính năng. Riêng về mảng hỗ trợ
lưu trữ, nForce 570 SLI không có gì đặc biệt với 6 cổng SATA tương tự
ICH9R nhưng nó vẫn có bộ điều khiển ATA giúp các nhà sản xuất BMC không
cần bổ sung chip phụ để có cổng IDE như thường thấy trên các sản phẩm
BMC mới của Intel với chipset cầu Nam ICH-9. Điểm thua kém duy nhất có
lẽ là phiên bản này chỉ có 10 cổng USB 2.0 trong khi ICH9R có tới 12
cổng.
Bên cạnh nForce 790, NVIDIA vẫn duy trì nForce 780i
và nForce 750i cho các hệ thống Intel tầm trung. Về cơ bản, chúng là
chipset nForce 680i với một số chỉnh sửa và bổ sung chip nForce 200 SLI
để hỗ trợ thêm khe cắm PCI-Express. Điểm khác biệt lớn nhất xét về khía
cạnh sử dụng là hai chipset này chạy DDR2 (nForce 790i không có khả
năng hỗ trợ DDR2) nên rất phù hợp với các hệ thống chơi game hiện nay,
đặc biệt khi DDR2 đang rất rẻ.
Bảng 2: Thông số của nForce 790i MCP |
|
ICH9-R |
nForce 790i SLI MCP |
nForce 780i SLI MCP |
Số kênh PCI Express 1.1 |
6 |
28 |
28 |
Số cổng Serial ATA |
6 |
6 |
6 |
Tốc độ SATA tối đa |
300MB/s |
300MB/s |
300MB/s |
Hỗ trợ AHCI |
Y |
N |
N |
Native Command Queuing |
Y |
Y |
Y |
RAID 0/1 |
Y |
Y |
Y |
RAID 0+1/10 |
Y |
Y |
Y |
RAID 5 |
Y |
Y |
Y |
Matrix RAID |
Y |
N |
N |
Số kênh ATA |
0 |
1 |
1 |
Số kênh âm thanh |
8 |
8 |
8 |
Chuẩn âm thanh |
HDA |
HAD |
HAD |
Ethernet |
10/100/1000 |
2 x 10/100/1000 |
2 x 10/100/1000 |
Số cổng USB |
12 |
10 |
10 | |
Nhìn chung, có hai lý do chính để bạn sử dụng BMC
nForce với CPU Intel: đồ họa đa card SLI và khả năng ép xung. Sự thành
công của dòng nForce 680i về mảng ép xung đã tạo tiền đề cho nForce 7
hiện nay song song với hệ thống BIOS tích hợp sẵn được thiết kế với mục
đích chính là phục vụ ép xung và tận dụng tối đa mọi khả năng của hệ
thống. Trong khi đó, công nghệ SLI lại là mấu chốt và cũng là thế mạnh
chính của nVIDIA. Nếu bạn muốn chạy SLI với CPU Core 2, bạn chỉ có lựa
chọn duy nhất là sử dụng BMC với chipset nForce (trừ khi bạn định chi
vài ngàn USD cho nền tảng Skulltrail mới của Intel).
Chipset cho bộ xử lý AMD
Tương tự các hệ thống nền tảng Intel, người dùng AMD
cũng có 2 lựa chọn chính: chipset của AMD hoặc NVIDIA. Tuy nhiên khác
với trường hợp Intel, ở đây, AMD chủ yếu tập trung vào các dòng sản
phẩm phổ thông còn NVIDIA tập trung hơn vào các dòng cao cấp (mặc dù cả
hai đều có đầy đủ dải sản phẩm từ thấp tới cao). Kể từ thời nForce 2
dành cho CPU Socket 462 cách đây vài năm, NVIDIA đã đóng vai trò quan
trọng trong các hệ thống AMD bởi chipset của hãng luôn có hiệu năng
cao, đồng thời hỗ trợ nhiều công nghệ tiên tiến hơn so với sản phẩm từ
các nhà sản xuất khác.
1. Chipset của AMD cho CPU AMD
Như bạn đã biết, CPU Phenom mới cần socket AM2+ và
một chipset với khả năng hỗ trợ đầy đủ các công nghệ mới để có thể tung
cánh thực sự. Hiện tại, AMD đã cho ra mắt các mẫu chipset thế hệ thứ 7
với ba đại diện không tích hợp đồ họa như trong bảng 3. Nhìn vào bảng 3
bạn có thể thấy tất cả đều có những đặc điểm chung mới, ví dụ Socket
AM2+, PCI-E 2.0, HyperTransport 3.0… Phiên bản K9A2 Platinum được trang
bị chipset AMD 790FX cao cấp nhất. Mặc dù chipset này có thể quản lý
tốt bất cứ bộ xử lý AM2/AM2+ nào của AMD nhưng với thứ hạng đầu bảng
của mình, nó đáng để sánh vai với một CPU Phenom lõi tứ. Chip cầu Bắc
RD790 được sản xuất trên quy trình 65nm và có công suất TDP chỉ 10W so
với 26W của Intel X38. Việc quản lý bộ nhớ được CPU đảm nhận và tất cả
chip Phenom đều có thể chạy tốt DDR2-1066. Liên kết HyperTransport 3.0
chịu trách nhiệm kết nối RD790 tới CPU có xung nhịp hoạt động 3,6GHz.
Tương tự như X38 và X48, RD790 cung cấp giao tiếp PCI-Express 2.0
(tương thích ngược chuẩn 1.1 cũ) với băng thông gấp đôi dành cho card
mở rộng và quan trọng nhất là card đồ họa. Hiện tại đã có rất nhiều nhà
sản xuất BMC tung ra sản phẩm với 790FX có tới 3 hoặc 4 khe cắm PCI-E
X16 để phục vụ cho công nghệ đồ họa đa card CrossfireX mới của ATI. Dĩ
nhiên nếu cắm tối đa 4 card, băng thông sẽ giảm xuống 8 kênh PCI-E
nhưng do là chuẩn PCI-E 2.0 nên chúng vẫn đảm bảo tốt hiệu năng luân
chuyển dữ liệu tương đương X16 của PCI-E 1.1. Thêm vào đó, bạn vẫn còn
tới 6 kênh PCI-E 2.0 khác cho thiết bị mở rộng như card âm thanh, card
RAID…
Song hành với RD790 là chipset cầu Nam SB600, đây
dường như là một bước tiến nhằm phục vụ cho việc đưa ra sản phẩm mới
nhanh chóng bởi SB600 không có đặc điểm gì mới và đã được giới thiệu từ
khá lâu (cùng với phiên bản RD580). Do đó nếu các nhà sản xuất muốn tạo
ra một BMC với nhiều tính năng tích hợp mạnh mẽ, họ sẽ cần bổ sung thêm
chip xử lý. Một số đặc tính quan trọng của SB600 có thể điểm qua gồm
khả năng hỗ trợ 6 khe PCI, 4 cổng SATA AHCI có kèm NCQ, RAID0/1/10, 10
cổng USB 2.0 và âm thanh HD.
AMD cho biết RD790 được thiết kế nhắm vào giới người
dùng ép xung cao cấp và chính vì thế những BMC RD790 sẽ được bán ra thị
trường với BIOS có nhiều tính năng tối ưu hóa và phần mềm ép xung
OverDrive của AMD dành riêng cho Windows Vista. OverDrive cho phép quản
lý xung nhịp, điện thế của từng lõi CPU Phenom độc lập, đồng thời theo
dõi trạng thái toàn hệ thống. Trong phần thử nghiệm chúng ta sẽ kiểm
chứng điều này.
Tương tự Intel với Centrino, AMD giới thiệu Phenom
mới với một nền tảng dành riêng cho game và những đối tượng ứng dụng
cần hiệu năng cao. Tận dụng ưu thế từ việc sát nhập ATI mới đây, nền
tảng mới với tên gọi Spider của AMD gồm 3 thành phần chính,CPU Phenom
lõi tứ, chipset 790 và card đồ họa hỗ trợ DirectX 10.1 (dòng Radeon HD
3000); theo AMD, việc ghép ba thành phần sẽ tạo điều kiện đồng bộ để
tận dụng sức mạnh tối đa từ mỗi thành phần.
BẢNG 3: CÁC MẪU CHIPSET THẾ HỆ THỨ 7 CỦA AMD |
Chipset |
Socket |
Chip cầu Bắc |
Chip cầu Nam |
Khe PCI-E x16 |
Phiên bản PCI-E |
Hyper Transport |
Hỗ trợ CrossFire |
AMD 790FX |
AM2+ |
RD790 |
SB600 |
Tối đa 4 |
2.0 |
3.0 |
CrossFire X |
AMD 790X |
AM2+ |
RD780 |
SB600 |
2 |
2.0 |
3.0 |
CrossFire X |
AMD 770 |
AM2+ |
RX780 |
SB600 |
1 |
2.0 |
3.0 |
Không có |
Sự kết hợp giữa AMD và ATI đã làm nảy sinh thêm dòng
sản phẩm chipset mới với đồ họa tích hợp đồng thời Crossfire X trên nền
CPU AM2+ và AM3 gồm AMD RS780G/V. RS780 có khả năng hỗ trợ các loại CPU
AM2+ mới nhất (cả Phenom 3 và 4 lõi) thông qua bus HyperTransport 3.0
tốc độ cao 5,2GT/s. Hiệu năng đồ họa tích hợp của RS780G thậm chí còn
nhanh hơn cả X3500 trên chipset G35 của Intel. Đó là chưa kể tới công
nghệ mới mang tên Hybrid CrossfireX cho phép người dùng sử dụng thêm
một card đồ họa Radeon 2400 hoặc 34xx để nâng cao hiệu năng xử lý hình
ảnh của RS780. Cuối cùng, giá của các BMC RS780 cũng rẻ hơn đáng kể so
với giá dự kiến của các sản phẩm G35 sắp tới. Hiện tại, số BMC sử dụng
chipset 780G nhiều hơn hẳn loại 780V. Sự khác biệt lớn nhất giữa hai
dòng chipset này chính là khối đồ họa tích hợp, trong khi 780G có ATI
Radeon HD 3200 thì 780V chỉ có ATI Radeon HD 3100. Bí mật sức mạnh đồ
họa của AMD là nhờ vào nguyên một bộ xử lý Radeon HD 2400 đã được thu
nhỏ nhờ quy trình sản xuất 55nm mới và tích hợp vào chipset cầu Bắc.
Như vậy, nghiễm nhiên RS780G có toàn bộ các đặc điểm của GPU Radeon HD
2400: 40 bộ xử lý dải, hỗ trợ DX10, khả năng xử lý phim HD (với UVD
2.0)… Dĩ nhiên, RS780G sẽ không thể chơi mượt các trò chơi nặng ở độ
phân giải 1280x1024, nhưng về sức mạnh xử lý đồ họa 3D, nó nhanh hơn
nhiều so với G33 hay GeForce 7150 hiện tại bởi dù thế nào, đồ họa rời
vẫn là đồ họa rời, kể cả khi nó bị “nhét” vào chipset cầu Bắc.
Sự thiếu vắng của khối điều khiển bộ nhớ trong
chipset cầu Bắc (do CPU AMD đã tích hợp bộ phận này) cho phép AMD vừa
bổ sung GPU vừa thiết kế RS780 với 202 triệu transistor và hoạt động ở
500MHz cho hiệu năng truyền dữ liệu cao. Theo AMD, công suất TDP của
chipset chỉ khoảng 3W trong trạng thái rỗi và 15W khi hoạt động.
Với BMC AMD, bạn cần phải để ý tới chip cầu Nam,
RS780G nối với chip cầu Nam thế hệ mới SB700 qua giao tiếp A-Link
Express II (tối đa PCI-E X4) tương tự như RD480 trước đây. Ngoài ra,
trong tổng số 22 kênh PCI-E 2.0, 16 được bố trí cho card đồ họa rời, 6
cho các thiết bị mở rộng (tùy nhà sản xuất BMC). Tuy nhiên, điều đáng
quan tâm chính là chipset cầu Nam SB700 mới. Trong khi ICH của Intel
gần như đã thành tiêu chuẩn về chipset cầu Nam cho giới CNTT và NVIDIA
cũng không thua kém gì mấy thì trong thời gian vừa qua, ATI lại lẹt đẹt
với SB600, phiên bản SB700 với sự trợ giúp của AMD hiện chứa đựng nhiều
điều quan trọng cả về hiệu năng và tính năng. Trước tiên, SB700 có 6
cổng SATA-II, trong đó 2 cổng có thể được dùng cho eSATA. Thêm vào đó,
số cổng USB đã được tăng lên 14 (12 cổng 2.0 và 2 cổng 1.1) với lời hứa
về hiệu năng cao hơn từ AMD. Để không bị tụt hậu khỏi phong trào RAID
cho máy để bàn, AMD đã giới thiệu công nghệ RAIDExpert song song với
SB700, rất dễ sử dụng và có giao diện thân thiện.
RAIDExpert hỗ trợ RAID 0,1,10 (RAID 5 sẽ chỉ có ở
SB750). Tuy nhiên, ở SB700, giao tiếp mạng gigabit vẫn phải cần tới
chip điều khiển riêng. AMD vẫn duy trì một kênh PATA nhằm tương thích
với các loại ổ cũ. Bên cạnh đó, nền tảng mới hỗ trợ HyperFlash - một
tính năng tương tự như Turbo Memory của Intel - một dạng bộ nhớ đệm
Flash chen vào giữa đĩa cứng và hệ thống nhằm tăng tốc độ nạp ứng dụng
thông qua Ready Boost và Ready Drive của Windows Vista. Tuy nhiên khác
với Intel Turbo Memory, module HyperFlash sẽ kết nối qua kênh IDE chứ
không phải PCI-E. Ở SB700 không có bất cứ kênh PCI-E nào, toàn bộ đều
được AMD giao phó hết cho cầu Bắc, tuy nhiên người dùng sẽ vẫn có các
khe cắm PCI truyền thống.
Một chú ý quan trọng là đôi khi dù chipset có thể hỗ
trợ toàn bộ dải CPU AMD nhưng nhà sản xuất BMC lại không hỗ trợ một số
dòng CPU nhất định, ví dụ một số loại với chipset 790X/770 hoặc 780G/V
hiện không hỗ trợ các loại CPU có công suất 140W, còn các loại CPU 125W
cũng phụ thuộc vào thiết kế của nhà sản xuất. Tuy vậy, nhìn chung các
sản phẩm chipset mới của AMD-ATI đều rất ổn định, bền bỉ, hiệu năng tốt.
2. Chipset NVIDIA
Chipset nForce 780a mới nhất của NVIDIA dành cho nền
tảng AMD có nhiều điểm chung với nForce 780i hoặc 790i (các phiên bản
cho Intel), tuy nhiên 780a có một số nét riêng, đánh dấu bước thay đổi
lớn tro ng cách thiết kế và phân cấp bo mạch chủ.
Trong quá khứ, các loại BMC với đồ họa tích hợp
thường là dòng cấp thấp, dành cho nhu cầu sử dụng đơn giản như ở gia
đình hoặc văn phòng làm việc. Đa số các BMC dạng này đều có kích thước
mATX nhỏ gọn.
Tất cả những điều như thế này đã hoàn toàn thay đổi
với nForce 780a. Thông qua một công nghệ đột phá mang tên Hybrid SLI,
NVIDIA đã khéo léo tích hợp hai tính năng tiên tiến vào một sản phẩm.
Trước hết là GeForce Boost với cơ cấu hoạt động như Hybrid Graphic của
AMD –cho phép sử dụng IGP tích hợp để hỗ trợ dựng hình cho card rời
thông qua SLI (ở AMD là Crossfire). Điểm yếu của công nghệ này là nó
chỉ hữu ích đối với các loại card đồ họa có hiệu năng ngang ngửa IGP
(đảm bảo giá rẻ). Đây cũng là lý do khiến AMD giới hạn Hybrid Crossfire
X ở Radeon HD 3450 và với K9N2 Diamond cũng như các sản phẩm 780a khác,
Hybrid SLI chỉ có GeForce 8400GS hoặc 8500GT. Vì thế, nếu bạn dùng
Hybrid SLI chơi Warcraft III hay The Sims thì tạm ổn chứ đừng mong tới
các loại game đời mới! Nửa còn lại của Hybrid SLI là Hybrid Power - là
tính năng sẽ hiện diện trên tất cả các BMC NVIDIA từ nay trở đi. Nó cho
phép người dùng kết nối màn hình với IGP, card đồ họa sẽ ở chế độ nghỉ
liên tục cho tới khi bạn kích hoạt một ứng dụng nặng, ví dụ như chơi
game. Như vậy, các BMC chipset NVIDIA mới sẽ có cổng DVI tích hợp và
IGP tích hợp sẵn bất kể nó có hỗ trợ SLI mấy card rời đi chăng nữa. Về
mặt lý thuyết, đây là một tính năng khá hữu ích bởi nó giúp tiết kiệm
điện và giảm nhiệt lượng tỏa ra trên máy tính, tuy nhiên vẫn còn một số
nhược điểm mà Hybrid Power chưa khắc phục được, ví dụ bạn buộc phải
dùng Windows Vista và card rời GeForce 9800GTX, 9800GX2 hoặc GeForce
GTX 260/280 mới nhất. Thêm vào đó, trình điều khiển cũng không tự
chuyển chế độ mà bạn phải điều chỉnh bằng tay. Xét về phương diện kĩ
thuật, điểm khiến cho 780a SLI khác biệt với những chipset dòng GeForce
8000 khác không phải ở MCP 780a SLI mà chính là chip cầu nối nForce 200
PCI-Express. Cầu nối này cung cấp chế độ PCI-Express 2.0 cho 2 khe cắm
PCI-E X16 hoặc 3 khe PCI-E (2 khe X8 và 1 khe X16). Đây là “mẹo” tương
tự như cách mà NVIDIA biến chipset nForce 680i thành nForce 780i trên
nền tảng Intel. Tuy nhiên ở đây, nForce 780a là chipset hoàn toàn mới
và nó sánh đôi với MCP 780a SLI tương tự như các dòng BMC GeForce 8000
giá rẻ (và cả nForce 790i SLI mới nhất).
Hiện tại, NVIDIA vẫn chú trọng vào dòng sản phẩm phổ
thông AMD nhiều hơn là cao cấp bởi đỉnh cao về hiệu năng bộ xử lý vẫn
đang do Intel nắm giữ, tuy nhiên không có nghĩa là mảng sản phẩm cao
cấp bị bỏ trống. Sự ra đời của chipset nForce 780a và hàng loạt các sản
phẩm BMC cao cấp như ASUS R.O.G Crosshair II hay MSI K9N2 Diamond với
những tính năng cao cấp, khả năng ép xung tốt là những lựa chọn lý
tưởng dành cho người dùng, tuy nhiên không thể chối bỏ sự thật là sức
mạnh của các dòng CPU AMD mới chưa đủ sức hấp dẫn "dân chơi" máy tính
chuyên nghiệp.
Intel Nehalem, Tylersburg và xa hơn
Tới cuối năm nay, toàn bộ các chipset chắc chắn sẽ
chuyển hẳn sang giao tiếp PCI-Express 2.0 mới. Tổ chức PCI-SIG đã bắt
đầu lên kế hoạch chuẩn PCI-Express 3.0 dành cho các card đồ họa mới với
công suất trên 300W, dự kiến ra mắt vào khoảng 2010.
Một công nghệ đầy hứa hẹn sẽ xuất hiện trong năm
2009 chính là USB 3.0 với tốc độ cao hơn và sử dụng ít tài nguyên CPU
trong khi vận hành hơn so với 2.0. Tuy vậy, toàn bộ chipset hiện tại và
một số mẫu nằm trong lộ trình sản phẩm của tất cả các hãng đều không có
thông tin gì về USB 3.0, hơn nữa khả năng tương thích ngược của USB sẽ
bảo đảm cho bạn tiếp tục sử dụng các thiết bị hiện tại. Điều đáng quan
tâm nhất lại nằm ở các loại CPU mới bởi yêu cầu socket mới. Tính tới
nay, Socket LGA 775 của Intel đã xuất hiện được vài năm và sắp tới sẽ
bị thay thế bởi Socket 1366. Về phía AMD, khi thế hệ CPU 45nm xuất
hiện, chúng sẽ hỗ trợ bộ nhớ DDR3 và yêu cầu socket AM3 mới. Dĩ nhiên
các chipset hiện nay của AMD cũng có thể sử dụng với socket AM3 nhưng
rõ ràng, bạn buộc phải có BMC với socket mới.
Về phía Intel, hiện tại, những thông tin đầu tiên về
chipset X58 với tên mã Tylersburg đã bắt đầu xuất hiện và dự kiến sản
phẩm sẽ có vào cuối năm nay. X58 sẽ là chipset cao cấp dành cho CPU
Nehalem (kiến trúc CPU tiếp theo của Intel). Nehalem sẽ có khối điều
khiển bộ nhớ tích hợp sẵn và CPU liên lạc với chipset thông qua kết nối
QPI (Intel Quickpath Interconnect) thay cho DMI hiện nay. Nehalem cũng
sẽ hỗ trợ DDR3 Triple-Channel (kênh 3) để tăng cường băng thông hệ
thống, vì thế các BMC X58 sẽ có 3 hoặc 6 khe RAM thay vì 2 hoặc 4 như
hiện nay.
Nhìn một cách tổng quát, cho dù bạn đang nhắm tới
CPU AMD 45nm hay các mẫu Nehalem, bạn đều không thể sử dụng chúng trên
những BMC hiện tại.
Cân nhắc
Rõ ràng, những người hâm mộ AMD đang phải chấp nhận
thực tế là hiệu năng của các bộ vi xử lý Phenom còn thua kém Core 2,
trong khi giá chưa thực sự hấp dẫn. AMD hiện cũng đang đẩy mạnh mảng
sản phẩm tầm trung với các dòng CPU Athlon X2 và Phenom 8000 3 lõi.
Điểm đáng giá nhất của AMD hiện nay có lẽ là khả năng tiết kiệm điện và
mức giá khá cạnh tranh ở thị trường phổ thông. Chính vì thế việc sắm
một BMC cao cấp cho nền tảng AMD hiện tại có vẻ không hợp lý cho lắm
bởi khác với SLI gần như bắt buộc đi đôi với nForce, Crossfire X có thể
chạy tốt trên các loại BMC chipset Intel đặc biệt là từ P35 trở về sau.
Đầu tư đáng xem xét vào AMD hiện tại là ở các sản phẩm tầm trung với đồ
họa tích hợp trên nền RS780, những BMC với chipset này vừa hỗ trợ
Crossfire, vừa hỗ trợ Phenom lõi tứ 9000 nên có khả năng nâng cấp tương
đối rộng mở. Đi theo hướng này, bạn vừa có thể tiết kiệm tiền, đồng
thời có được hệ thống máy tương đối mạnh, sẵn sàng chờ đợi những bước
đột phá của AMD trong mảng sản phẩm AM3/45nm sắp tới. Trong tình hình
cơ hội cạnh tranh của các dòng CPU AMD với CPU thuộc kiến trúc Core 2
thực sự chưa rõ ràng lắm, chưa kể tới Nehalem đang ngấp nghé ra mắt,
bạn không nên chi quá nhiều tiền.
Về phía Intel, chắc chắn các dòng CPU Nehalem khi
mới tung ra sẽ có giá rất cao, ngay cả Intel cũng cho biết sẽ đưa ra
các mẫu cao cấp trước rồi mới chuyển dần xuống thị trường tầm trung.
Trong khi đó, hiện tại Intel đang rất thành công với các dòng Core 2
Duo và Core 2 Quad thế hệ mới 45nm. Vì thế những người dùng trung thành
có thể tiếp tục gắn bó với chipset P35/X38/X48 hoặc P45 mới cho tới
cuối 2009 (Intel vẫn tiếp tục duy trì những nền tảng này chứ không loại
bỏ ngay khi Nehalem được tung ra).
Nguyễn Thúc Hoàng Linh ( TGVT)